Hôm nay tiengnhatkythuat.com xin tiếp tục gửi đến bạn đọc phần 2 của series: Nguyên tắc "liền âm" trong tiếng Nhât, Rendaku. Tại sao dai+suki=dasuki mà hanashi+suki=hanashizuki? Nguyên tắc RENDAKU là gì?
Có phải đây là điều bạn đang tự hỏi và chưa thể trả lời? |
Bài viết hôm nay sẽ tập trung giải đáp và đưa ra các nguyên tắc tiếp theo trong Rendaku. Đi sâu phân tích vì sao 出 (しゅつ) + 発 (はつ) = 出発 (しゅっぱつ ) mà không phải là しゅっばつ. Vì sao 梅 (うめ) + 干し (ほし) = 梅干し (うめぼし) trong khi 布団 (ふとん) + 干し (ほし) = 布団干し (ふとんほし). Hay vì sao 大(だい)+好き(すき)=大好き(だいすき)trong khi 好き (すき) + 好き (すき) = 好き好き (すきずき) và 話し (はなし) + 好き (すき) = 話し好き (はなしずき). Hay là 中 (ちゅう) + 国 (こく) = 中国 (ちゅうごく) mà 韓 (かん) + 国 (こく) = (かんこく)
https://www.tofugu.com/japanese/rendaku/
Để bắt đầu phần 2, trước tiên hãy nói về âm h trong tiếng Nhật. Vì âm h có thể thay đổi thành b, p nên bạn sẽ tự hỏi tại sao trong ひとびと thì ひと lại đổi thànhびとmà không phải là ぴと. Thực ra, không phải gì quá cao siêu hay phức tạp, mà hãy nhớ quy tắc cố định này:
Nếu âm cuối cùng của từ đầu tiên trong câu ghép kết thúc bằng つ hoặc ん thì phụ âm đầu của từ thứ 2 trên nguyên tắc rendaku sẽ chuyển thành hàng p.
Mọi âm khác được mặc định được chuyển thành hàng b.
Dưới đây là một vài ví dụ:
出 (しゅつ) + 発 (はつ) = 出発 (しゅっぱつ) Xuất + Phát = Xuất phát, Khởi hành
しゅつ sẽ được chuyển thành しゅっ và はつ sẽ chuyển thành ぱつ . Trường hợp này, Sokuon chính là nguyên nhân khiến h trở thành p.
(Sokuon (Nhật: 促音 (Xúc âm)/ そくおん? hay còn gọi là là "âm ngắt") là một loạt âm đọc trong tiếng Nhật. Nó được ký hiệu bằng chữ "tsu" viết nhỏ (っ hay ッ, so với kích cỡ to thông thường là つ hay ツ). Vì vậy, sokuon còn được gọi với tên bình dân là "tsu nhỏ" (小さい「つ」 - chisaitsu).
Chức năng chính của ký hiệu "sokuon" trong tiếng Nhật là kéo dài gấp đôi phụ âm đứng sau nó, đặc biệt là phụ âm "ch"…”)
鉛 (えん) + 筆 (ひつ) (えんぴつ)
chì + bút viết = bút chì
ひつ chuyển thành ぴつ. The ん là nguyên nhân chuyển hang h sang hàng p.
Hãy ghi nhớ mối liên quan vừa nói giữa h, b và p mãi khi bạn tiếp túc đọc phần còn lại của hướng dẫn này. Bạn sẽ thấy các ví dụ về nó được nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần.
QUY TẮC RENDAKU CHUNG
Nội dung tiếp theo dưới đây là một chuỗi các Nguyen tắc chung mà rendaku tuân theo. Chúng mình sẽ đi vào chi tiết lần lượt từng nguyên tắc bằng cách đưa ra (1) giải thích (2) ví dụ (3) các trường hợp ngoại lệ.
Nguyên tắc Rendaku chung |
Rendaku có thể rất khó hiểu, tuy được lý giải bởi những nguyên tắc nhưng vẫn tồn tại những trường hợp đặc biệt và bất ngờ.
Những nguyên tắc đưa như một nguyên tắc cơ bản và quan trọng nhưng nó không phải tuyệt đối hoặc không thể phá vỡ vì vẫn tồn tại ngoại lệ ở đâu đó. Các nguyên tắc đó là:
1 Từ gốc tiếng Nhật áp dụng Rendaku.
3 Từ mượn nước ngoài không áp dụng Rendaku.
4 Nếu từ thứ hai câu ghép có phụ âm kêu hoặc handakuon ở bất cứ đâu trong từ, thì Rendaku sẽ không xảy ra.
5 Nếu thanh âm trong từ đầu tiên mà quá giống với từ thứ hai, Rendaku có thể không xuất hiện.
6 Các từ sau khi ghép mà có nghĩa là "X và Y", thì Rendaku không xảy ra.
7 Các từ tượng thanh có tính lặp lại thì rendaku không sinh ra.
8 Một số tiền tố và hậu tố nhất định không áp dụng nguyên tắc Rendaku.
Trước tiên, chúng ta hãy lần lượt tìm hiểu từng quy tắc một, hãy bắt đầu với một bài học nhanh về ba loại từ trong tiếng Nhật mà sẽ có ảnh hưởng đến quy tắc 1 và 3.
和語 Wago (tiếng Nhật) - từ gốc tiếng Nhật
漢語 Kango (tiếng Trung) - Từ mượn tiếng Trung
外来語 Gairaigo (tiếng nước ngoài) - từ vay mượn
Wago, còn được gọi là Yamato Kotoba (大和言葉) hay từ tiếng Nhật cổ, bao gồm tất cả các từ được thừa hưởng từ tiếng Nhật cổ. Không mượn, điều chỉnh hay cóp nhặt từ bất kỳ ngôn ngữ nào khác. Là tiếng Nhật thực sự và xuyên suốt từ cổ xưa.
Wago-Kango- Gairaigo |
Kango là những từ được giới thiệu từ Trung Quốc trong nhiều thế kỷ, sau đó được thay đổi và điều chỉnh để phù hợp với quy tắc phát âm của người Nhật Bản.
Khi chúng ta nói về cách đọc kanji, chúng ta sử dụng thuật ngữ kun'yomi (訓読み) cho cách đọc để hiểu tiếng Nhật bản địa (wago) và on'yomi (音読み) cho cách phát âm các từ nguồn gốc từ tiếng Trung (kango). Lịch sử cách đọc và sử dụng Kanji rất thú vị, và nó sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về Rendaku. Nếu bạn chưa đọc về nó, chúng tôi khuyên bạn nên đọc Hướng dẫn về On'yomi và Kun'yomi trước khi tiếp tục bài viết này.
Gairaigo là những từ được giới thiệu từ các quốc gia khác ngoài Trung Quốc. Ngày nay, hầu hết trong số này tồn tại dưới dạng từ mượn katakana, nhưng ngôn ngữ Hà Lan và Bồ Đào Nha có ảnh hưởng mạnh mẽ trong thời Edo của Nhật Bản (1603 - 1868), trước khi các từ mượn được katakana-ized (nghĩa là katakana hóa). Chúng rất khó nhận biết và thường xuyên xuất hiện trong kanji hoặc hiragana.
Giờ hãy cùng bắt đầu các nguyên tắc cụ thể.
TỪ GỐC TIẾNG NHẬT ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC RENDAKU
Chúng ta sẽ bắt đầu với wago: những từ gốc Nhật Bản. Một điều cần biết về những từ này là, trừ một vài ngoại lệ thì chúng hầu như không bao giờ bắt đầu với một phụ âm kêu dakuten hoặc handakuten (g, z, d, b, p), và nếu có thì là siêu siêu hiếm (bạn nào biết xin blog xin được chỉ giáo).
Từ tiếng Nhật gốc wago áp dụng Rendaku |
Điều này có nghĩa rằng, rất có thể Rendaku được tạo ra một cách tự nhiên, không phải chủ ý để phân biệt các từ ghép được tạo nên từ 2 từ đơn giống hệt nhau. Những từ như ひとびと sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn vì sao không nói là 「ひと、ひと」(một người, một người khác), và mọi người sẽ biết びと không phải là một từ (trong tiếng Nhật không tồn tại từ びと), vì những từ thực sự như đã nói ở trên, không bao bắt đầu bằng び! Nghĩa là: cho dù nói hito-bito thì do bito không tồn tại trong tiếng Nhật nên người Nhật vẫn hiểu đó là biến thể phát âm của hito mà ra.
Hãy xem xét một vài ví dụ khác:
草 (くさ) + 花 (はな) = 草花 (くさばな) Cỏ + hoa = Cây có hoa/ cây hoa.
くさばな biểu thị rằng bạn không phải đang nói về cây và hoa vì, trong tiếng Nhật không có ばな.
青 (あお) + 空 (そら) = 青空 (あおぞら) Xanh + trời =Trời trong xanh
Nói あおぞら mọi người sẽ hiểu đó là một từ ghép, và あお làm thay đổi そら và một lý do quan trọng là tiếng Nhật không tồn tại ぞら.
Nhìn lại danh sách các điều kiện lý tưởng để xảy ra Rendaku, từ đó chúng ta có thể thấy rằng các từ tiếng Nhật là chất xúc tác rất hoàn hảo. Các điều kiện cơ bản cần thiết để Rendaku xảy ra như sau:
1. Hai từ kết hợp với nhau để tạo thành một từ ghép.
2. Phụ âm đầu tiên của từ thứ hai (trước khi kết hợp) là phụ âm câm.
3. Phụ âm đầu tiên của từ thứ hai là một trong bốn bộ ký tự có thể thay đổi thành phụ âm kêu với dakuten hoặc handakuten (k, s, t hoặc h).
4. Bao quanh phụ âm đầu tiên của từ thứ hai là các nguyên âm kêu (đôi khi là giọng mũi, hay Nasal voice còn được gọi là giọng mũi hay tính chất ngả mũi của âm thanh. Thông thường khi phát âm, có một số phụ âm đầu mang tính chất ngả mũi như "m, n, ng, nh...", tiếng Pháp là un bon vin blanc, có vị trí cấu âm ở mũi).
Hầu như tất cả các từ wago đều bắt đầu với các phụ âm câm, và tất cả các nguyên âm đều là nguyên âm kêu. Điều đó có nghĩa là nếu từ thứ hai trong từ ghép bắt đầu bằng k, s, t hoặc h, thì các điều kiện cho Rendaku là hoàn hảo! Hãy xem các ví dụ sau, xác nhận rằng các nguyên tắc từ 1-4 trong danh sách trên được áp dụng.
k → g平 (ひら) + 仮名 (かな) = 平仮名 (ひらがな)
bình + kana = hiragana
s → z山 (やま) + 桜 (さくら) = 山桜 (やまざくら)
núi + hoa anh đào = hoa anh đào dại
t → d鼻 (はな) + 血 (ち) = 鼻血 (はなぢ)
mũi + máu = chảy máu cam
h → b花 (はな) + 火 (ひ) = 花火 (はなび)
hoa + lửa = pháo hoa
h → p出 (で) + 歯 (は) = 出っ歯 (でっぱ)
ra + răng = rang khểnh (rang mọc lệnh ra)
Ngôn ngữ Nhật Bản tinh tế như thế này cho đến khoảng thế kỷ thứ 4. Với những người bạn đã đọc về lịch sử hình thành on'yomi và kun'yomi, hẳn các bạn đã biết điều gì đã xảy ra trong khoảng thời gian sau thế kỷ thứ 4 nhỉ. Đó là sự bổ sung của lượng từ gốc Trung Quốc hay katakana rất lớn và phức tạp trong hệ thống ngôn ngữ Nhật Bản. Hãy tiếp tục với nguyên tắc tiếp theo.
TỪ GỐC TRUNG QUỐC KHÔNG ÁP DỤNG RENDAKU
Không giống như wago, các từ kango có nguồn gốc từ tiếng Trung Quốc có thể bắt đầu bằng các phụ âm kêu. Chính vì điều này, việc áp dụng Rendaku sẽ khiến các từ phụ âm câm nghe giống như các từ phụ âm kêu khác và sẽ dẫn đến nhầm lẫn.
Từ tiếng Nhật gốc Trung Quốc kango không rendaku |
Ví dụ, trong từ 入学試験 (にゅうがくしけん) có nghĩa là "kỳ thi tuyển sinh", bạn sẽ không thể chuyển nó thành にゅうがくじけん. Nếu bạn làm vậy, nó có thể gây nhầm lẫn, bởi vì じけん (事件) có nghĩa là "sự cố". Kiểu như ví dụ ai đó nói 何てことだ、がいがくじけんについて聞いた。Bạn rất có thể sẽ hiểu là "Trời ơi, bạn có nghe về sự cố tuyển sinh không?" Ý nghĩa câu bị thay đổi hoàn toàn chỉ vì áp dụng Dakuten và đó rõ ràng không phải là những gì bạn muốn nói.
Tương tự, さっか trong 放送作家 (ほうそうさっか), có nghĩa là "nhà văn đài phát thanh", sẽ không áp dụng Rendaku với さっか. Vì nếu áp dụng, chúng ta sẽ nhận được ざっか, nghe giống như từ 雑貨 hoặc "linh tinh". Vậy chẳng phải 放送作家 khi đó được hiểu lầm thành “những thứ linh tinh của nhà đài phát thanh” sao. Quả là biến thể tại hại phải không nào.
Có lẽ bạn đang bắt đầu hiểu lý do tại sao các từ kango gốcTrung Quốc không áp dụng được Rendaku rồi nhỉ. Có quá nhiều sự mơ hồ, ít nhất là khi so sánh với các từ wago. Khả năng hiểu lầm cao này rất có thể là lý do tại sao phần lớn các từ ghép kango không kết xuất. Những từ ghép kanji này, được tạo thành từ hai hoặc nhiều hơn các bài đọc on'yomi được gọi là jukugo (熟語), và chỉ một tỷ lệ nhỏ trong số đó là áp dụng Rendaku.
Sức mạnh của những từ kango này mạnh đến mức người Nhật thậm chí còn có thói quen ngăn chặn việc xuất hiện của Rendaku, ngay cả khi chúng có thể ghép với một từ gốc Nhật để tạo ra 1 từ ghép mới có nghĩa.
Trong các từ ghép tạo bởi 2 loại từ kango + wago, trong đó phần tử đầu tiên sử dụng cách đọc on'yomi và phần tử thứ hai sử dụng cách đọc kun'yomi, việc áp dụng Rendaku có thể bị chặn lại (cố tính không áp dụng). Ngay cả khi tất cả các điều kiện khác để Rendaku có tồn tại, thì các từ kango vẫn sẽ là nguyên nhân ngăn nó xảy ra.
Hãy xem cách nó hoạt động ra sao qua các ví dụ dưới nhé.
梅 (うめ) + 干し (ほし) = 梅干し (うめぼし)
quả mận + khô = quả mận khô
Cả 2 từ này đều có gốc Nhật Bản và ほ bị chuyển thành ぼ vì đáp ứng tất cả các nguyên tắc áp dụng Rendaku. Nhưng, hãy nhìn ví dụ dưới.
布団 (ふとん) + 干し (ほし) = 布団干し (ふとんほし)
chăn, nệm + khô = hành động làm khô chăn, nệm
Trong câu ghép trên ふとん là từ gốc Trung Quốc sử dụng cách đọc on'yomi, ほし là từ gốc Nhật Bản đọc theo kun'yomi, như đã trình bày ở trên, ほ không áp dụng rendaku.
"Nhưng chờ đã," có lẽ bạn đang nghĩ, "âm んtrong ふとん không phải là một nguyên âm kêu!" Vậy theo quy tắc 4 vừa nhắc lại phía trên (4. Bao quanh phụ âm đầu tiên của từ thứ hai là các nguyên âm kêu (đôi khi là giọng mũi, hay Nasal voice còn được gọi là giọng mũi hay tính chất ngả mũi của âm thanh. Thông thường khi phát âm, có một số phụ âm đầu mang tính chất ngả mũi như "m, n, ng, nh...", tiếng Pháp là un bon vin blanc, có vị trí cấu âm ở mũi)) thì tại sao ほ trong 梅 (うめ) + 干し (ほし) = 梅干し (うめぼし) lại chuyển thành ぼ .
Nhưng không, không phải, tuy không phải nguyên âm kêu nhưng nó chính là một nhưng đó là một giọng mũi, hay Nasal voice.
川 (かわ) + 底 (そこ) = 川底 (かわぞこ)
sông + đáy = đáy sông
心 (しん) + 底 (そこ) = 心底 (しんそこ)
tim + đáy = đáy lòng, sâu trong tim
奥 (おく) + 底 (そこ) = 奥底 (おくそこ)
bên trong + đáy = độ sâu
そこlà một từ wago, và nó sẽ áp dụng Rendaku trong một từ ghép với một từ wago khác (かわ). Nhưng sẽ không có Rendaku khi mang そこghép nối với các từ kango (ví dụしん và おく).
Từ 大 là một ví dụ điển hình khác của từ kango sẽ ngăn không để Rendaku xảy ra. Cùng xem ví dụ sau:
大(だい)+好き(すき)=大好き(だいすき)
to lớn + thích = Rất thích
だい là một từ gốc kango và すき là từ gốc wago, và khi đó すき không áp dụng rendaku.
Nhưng nếu từ ghép tạo bởi waga+wago, bạn sẽ thấy すき luôn áp dụng Rendaku. Ví dụ sau sẽ cho bạn hiểu điều này.
好き (すき) + 好き (すき) = 好き好き (すきずき)thích + thích = Sở thích, ý thích của tưng người
話し (はなし) + 好き (すき) = 話し好き (はなしずき)
nói + thích = người thích nói chuyện
酒 (さけ) + 好き (すき) = 酒好き (さけずき)
rượu + thích = người nghiện rượu
Và còn nhiều từ ghép khác:
大 (だい) + 嫌い (きらい) = 大嫌い (だいきらい)
lớn + ghét = rất ghét
だい là một từ gốc kango và きらい là từ gốc wago, và きらい cũng không áp dụng rendaku. Nhưng vẫn nguyên tắc đã nói, nếu すき trong một từ ghép kiểu wago + wago chúng ta sẽthấy きらい được áp dụng Rendaku. Ví dụ:
犬 (いぬ) + 嫌い (きらい) = 犬嫌い (いぬぎらい)
con chó + ghét = người ghét chó
猫 (ねこ) + 嫌い (きらい) = 猫嫌い (ねこぎらい)
mèo + ghét = người ghét mèo
女 (おんな) + 嫌い (きらい) = 女嫌い (おんなぎらい)
phụ nữ + ghét= tính ghét kết hôn
Nhưng điều đó không có nghĩa là tất cả các từ ghép kango sẽ không có Rendaku. Rendaku đôi khi cũng xảy ra trong kango, đặc biệt nếu yếu tố thứ hai bị tầm thường hóa. Tầm thường hóa, vềmặt ngôn ngữ, chỉ đơn giản là làm cho một từ trở nên phổ biến hơn. Bởi vì nó là một phần của ngôn ngữ chung, nên nó được coi như là một từ wago.
Cùng xem ví dụ sau:
夫婦 (ふうふ) + 喧嘩 (けんか) = 夫婦喧嘩 (ふうふげんか)
Cặp đôi đã kết hôn + cãi nhau = sự cãi nhau giữa vợ và chồng.
Từ ghép kango này đã trở thành một thuật ngữ chung rất thường gặp trong ngôn ngữ Nhật Bản vì chuyện cãi nhau giữa vợ chồng có thể nghe thấy hằng ngày, bất cứ lúc nào, bất cứ đâu trong xã hội hiện nay. Và mặc dù nó được tạo thành từ hai từ on'yomi, nhưng từ thứ hai lại xuất hiện Rendaku.
兄妹 (きょうだい) + 喧嘩 (けんか) = 兄妹喧嘩 (きょうだいげんか)
anh em + cãi nhau = trận cãi cọ giữa 2 anh em
内輪 (うちわ) + 喧嘩 (けんか) = 内輪喧嘩 (うちわげんか)
Người thân trong gia đình + cãi cọ = sự cãi nhau trong gia đình
Nhưng trong hai ví dụ tiếp theo, chúng ta sẽ thấy các từ ghép wago + kango. Dựa trên mứ độ phổ biến / thông tục của một từ, nó được coi như thể nó là wago và cho phép Rendaku xuất hiện.
株式 (かぶしき) + 会社 (かいしゃ) = 株式会社 (かぶしきがいしゃ)
cổ phần + công ty = công ty cổ phần
青 (あお) + 写真 (しゃしん) = 青写真 (あおじゃしん)
xanh + in ấn = bản kết hoạch đang thực hiện
Trong ba ví dụ tiếp theo, chúng ta thấy sự kết hợp kango + wago. Vì những từ kango này bị thông tục, nên chúng được coi như là wago, có nghĩa là từ thứ hai có thể áp dụng Rendaku cho dù từ đầu tiên là kango.
野 (の) + 菊 (きく) = 野菊 (のぎく)
cánh đồng + cây hoa cúc = cúc dại
避難 (ひなん) + 梯子 (はしこ) = 避難梯子 (ひなんばしご)
lánh nạn + bậc thang = thang thoát hiểm (cháy)
座 (ざ) + 布団 (ふとん) = 座布団 (ざぶとん)
ghế/ngồi + chăn, nệm = đệm ngồi kiểu Nhật
Các ví dụ tiếp theo đây đều là các từ kango bị thông tục/ phổ biến hóa nhưng không rõ rang:
中 (ちゅう) + 国 (こく) = 中国 (ちゅうごく)
Trung + Quốc = Trung Quốc
韓 (かん) + 国 (こく) = (かんこく)Hàn + Quốc = Hàn Quốc
Tại sao 中国 áp dụng renderaku nhưng 韓国 thì không? Đây chính là một trong những câu hỏi thường gặp nhất, và có một vài câu trả lời có thể làm bạn hiểu vấn đề:
Đầu tiên, nếu bạn nhìn thấy 中đứng một mình, bạn không nhất thiết sẽ nghĩ đến "Trung Quốc", bởi vì bản thân nó cũng được sử dụng cho các nghĩa khác như "giữa" hoặc "trung tâm;" nó phải được kết hợp với 中 để tạo ra từ Trung Quốc. Tuy nhiên, nếu bạn nhìn thấy 韓 một mình, bạn sẽ luôn biết đó là "Hàn Quốc", vì hầu như 韓 luôn luôn nằm trong các từ có ý nghĩa “Triều Tiên”. 韓国 không cần đến 国 đ có nghĩa là "Hàn Quốc".
Một lý do khác có thể đơn giản đó là là vì những hiểu lầm mà chúng ta đã nói trước đó.
中国 nếu không áp dụng rendaku sẽ dễ gây hiểu lầm là 忠告 (ちゅうこく), nghĩa là “cảnh báo” hay “lời khuyên”.
韓国 nếu có rendaku sẽ bị hiểu lầm là 監獄 (かんごく), nghĩa là "nhà tù".
Khi bạn nhìn theo cách này, sẽ dễ dàng hơn nhiều để biết lý do tại sao một số từ gốc kango lại xuất hiện Rendaku và những từ khác thì không. Nó chỉ đơn thuần là một số nghiên cứu để tìm hiểu lý do tại sao.
Những lý do này cho dù các từ gốc kango có áp dụng Rendaku hay không vẫn đang được nghiên cứu, vì vậy chúng chỉ là giả thuyết. Có thể một ngày nào đó chúng ta sẽ có một giải pháp và quy tắc ngôn ngữ thực sự để tuân theo. Nhưng bây giờ, đây là những gì chúng ta có!./
Nội dung nghiên cứu còn rất dài. Chắc hẳn tìm hiểu một nghiên cứu quá dài sẽ làm các bạn chán nản nếu quá phức tạp. Do vậy, đừng vội, hãy đọc kỹ và ghi nhớ những gì đã được giải thích ở trên, và đừng quên ghi nhớ cả phần 1 của series và chúng tôi sẽ tiếp tục gửi đến các bạn trong phần tiếp theo của series này.
Link phần 1 của series: Tại sao là Hitobito, tokidoki mà không phải hitohito, tokitoki? Nguyên tắc nối âm tiếng Nhật như thế nào?
Bài viết được tham khảo từ www.Tofugu.com. Nếu các bạn có hứng thú muốn hiểu ngay toàn bộ nghiên cứu, hãy tham khảo theo bài viết dưới đây, nhưng tất nhiên, chỉ có phiên bản tiếng Anh nhé:
Link phần 1 của series: Tại sao là Hitobito, tokidoki mà không phải hitohito, tokitoki? Nguyên tắc nối âm tiếng Nhật như thế nào?
Bài viết được tham khảo từ www.Tofugu.com. Nếu các bạn có hứng thú muốn hiểu ngay toàn bộ nghiên cứu, hãy tham khảo theo bài viết dưới đây, nhưng tất nhiên, chỉ có phiên bản tiếng Anh nhé:
0 件のコメント:
コメントを投稿